
Phan Bội Châu (Thân Thế Và Thi Văn)
MẤY LỜI TRẦN-TÌNH
Chí-sĩ là những bậc ưu-ái giang-san, thương nòi xót giống, gặp cơn nước bĩ thì chẳng quản thân, hết sức mình mà mưu cuộc vinh-quang cho dân nước. Đến khi nhận rõ thời cơ, chí-sĩ không bao giờ ngần-ngại đạp phăng trở lực, sáng-suốt đứng ra lãnh-đạo quần-chúng, khởi xướng phong-trào, phất cờ gióng trống chiêu hồn dân-tộc, gọi đàn để cùng dân nước cùng lo : đường bảo-chủng, nghĩa hợp-quần.
Kể từ sau trận Nhật-Nga (1905-1908) nước ta đã có phong-trào Duy-Tân tự cường hơn suốt bốn mươi năm cho tới ngày nay, do các bậc chí sĩ tiên giác đi tiên-phong, khai lối mở đường, khiến cho dân-tộc ta ngày nay hăm-lăm triệu dân đều đã biết nung-nấu nơi lòng một lý-tưởng, hăng-hái, dũng tiến trên đường Duy-Tân cải-cách.
Vận-hội mới đã đến rồi. Quốc-gia hưng-thịnh do ở toàn dân định-quyết trong buổi này. Lửa thiêng bừng cháy trong tâm-can dòng-giống Việt. Khí thiêng bàn-bạc khắp nước non nhà.
Người đi sau phải nhớ ơn người đi trước dọn đường, mà sa nước mắt, niệm công-lao, hinh hương sùng-bái.
Ta không nên đem thành bại mà luận anh-hùng. Chỉ nên cầu rút lấy những bài học hay của những bậc người-đã dốc chí hy-sinh, tận-tụy vì đại-chúng.
Nhóm lò hương thiêng trong lòng đất Việt, khơi ngọn lửa thiêng trong lòng dân Việt, tỏ tấm tình cùng với non-nước đồng-bào, chúng tôi xin cố hết sức sưu-tầm biên-khảo toàn pho « Việt-nam chí-sĩ » , trong tủ sách « NHỮNG MẢNH GƯƠNG » của nhà TÂN VIỆT.
Mỗi một chí-sĩ sẽ biên thành một tập, thành kính ghi chép hết những công-nghiệp bình-sinh, từ khi chào đời cho đến khi tử hậu.
Soát lại dĩ-vãng để tìm những tấm gương sáng cho buổi đời hiện-tại, tưởng cũng là một điều cần để nhận-định rõ cuộc diễn-triển của lịch-sử mà hướng về tương-lai.
Ấy là chí nguyện của người hậu học.
THẾ NGUYÊN
***
TỰA
Đọc biểu xuất sư của Gia-cát Lượng, đọc đến câu « Cúc cung tận-tụy, đến chết mới thôi » nghìn năm sau ai chẳng ngùi-ngùi ! Công-nghiệp bình-sinh, rờ-rỡ ở một câu chí thiết chí tình, lật trang sử tưởng như thấy ai đã óc-gan thoa lầy đất vì một tấm tình trung báo quốc.
Đời sống của chí-sĩ cũng đáng yêu, vì chí-nguyện và hành-vi đã gồm tóm ở một câu đáng kinh của bậc « vạn đại quân-sư » ấy.
Phan bội Châu tiên-sinh hưởng dương 75 năm. Từ trẻ cho đến ngày nhắm mắt, tấm thân bô-bá, vì dân vì nước mà trải mọi gian-lao. Tài cao, đỗ thủ-khoa, khi tuổi trẻ đã lừng danh tài-tuấn. Nếu chỉ như ai, thì tài ấy đã thừa sức leo nấc thang danh-vọng ; nhưng danh hão, lợi xằng mà làm gì, khi chính mắt đã sớm thấy biết cái cảnh trụy-lạc của quần-chúng mà xót-xa. Thi-hành chính-sách ngu-dân, kẻ xâm-lăng trắng-trợn bày bộ mặt thực-dân. Đám cường-hào trọc-phú thì dua bợ quan thầy, nặng óc phong-kiến, trân-tráo vong-bản, hãm-hại đồng-bào, bán nước. Trông hoàn-cảnh nước nhà như thế, lòng chí-sĩ đau cái đau rứt thịt, thắt khúc ruột, bấm lá gan. Cho nên :
« Vẫn là hào-kiệt vẫn phong-lưu.
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù ! »
Sào Nam đã yêu quốc-dân chí thiết, vì quốc-dân mà tấm thân chẳng quản cay-đắng nếm mùi ; nhưng hiềm mệnh-số long-đong, khiến nên nỗi một đời cháy lưỡi khô môi khao-khát nước hoài, đến buộc miệng ngâm :
« Vì cớ sao mà khát nước hoài.
Trà đâu ta hãy uống mầy chơi,
Không Tàu thì Huế tha-hồ thú.
Pha tục và tiên đặc bõ đời.
Ấm-lạnh tình đời năm bảy chén
Nhạt nồng mùi thế một vài hơi.
Trà ơi ! còn nước là vinh-hạnh.
Cháy lưỡi khô môi thảm những mùi » .
Sào Nam lại đã từng đau-đớn vì quốc-dân chậm bước trên đường tiến-hóa, nên hằng đem tâm-can bày-giãi, cực-lực kêu gào cảnh-tỉnh quốc-dân. Thậm chí mừng bạn thi đỗ Tiến-sĩ Hán, Sào Nam cũng ngụ ý kêu-gào trong câu đối :
« Tao tế diệc thiên sở vi, hạnh bất sinh Đường Ngu tam đại dĩ tiền, kim bảng thạch bi, tiện thị ngô nhân hi thế sự . Học-giới chí kim tối thịnh, thỉnh thí vấn Âu Á ngũ châu nhi ngoại, hồng thiên đại bút, quả như ngã bối quyết khoa văn ».
Ông Võ Oanh đã dịch : « Nên danh bởi phận trời cho, may không sinh Đường Ngu tam-đại xưa kia, bia đá, bảng vàng, bất quá người ta bày chuyện nhảm. Việc học đến nay thịnh quá, xin hỏi thử Âu Á năm châu ngoài cõi, văn hay luận giỏi, đâu như khoa-cử l ố i mình đây » .
Sớm biết cái học hư-văn là không ích-lợi, Sào Nam mới chuyên-chú về đường thực-dụng ; qua Tàu, sang Nhật, tấm lòng thâm-thiết lo toan cho nước nhà được phú-cường, biểu-lộ rõ-rệt trong một tập HẢI-NGOẠI HUYẾT-THƯ.
Nặng yêu non nước, tấm thân mấy lượt ra khám vào tù, nhưng tấm lòng son-nhuộm của Sào Nam, đến chết vẫn không phai thắm.
Trong lúc buổi về chiều, nương-náu trên chiếc thuyền lênh-đênh bên dòng sông Hương, bó tay ngồi nhìn việc đời rối nát, lòng chí-sĩ từng cơn quằn-quại. Cho đến ngày tàn, trở-trăn trên giường bệnh, Sào Nam còn khẩu chiếm một bài thi cuối cùng, lòng vẫn chẳng quên nhắn-nhủ mong cầu đàn sau dõi bước.
Thể-phách của chí-sĩ đã trả về cho đất, nhưng nghìn năm chính-khí vẫn cùng nhật nguyệt tranh sáng tranh còn. « Việt-điểu sào nam chi », chim Việt dù bay đâu, ở đâu, nhưng bao giờ cũng chỉ tìm cành nam mà đỗ ; chí-sĩ Phan bội Châu thật đã ký-thác nỗi lòng trong hai chữ hiệu Sào Nam.
Ngày nay cao-trào cách-mệnh lên dào, người xưa đã khuất. Trong chốn hư-linh, chí-sĩ quá cố hẳn cũng mỉm cười công mình phất cờ chẳng uổng.
Lần trang sử cách-mệnh, những năm biến-cố đầu tiên trên đất nước, hôm nay chúng ta hãy cùng gây lại đĩnh trầm, xem tiểu-sử họ Phan.
T. NG.
Mời các bạn đón đọc Phan Bội Châu (Thân Thế Và Thi Văn) của tác giả Thế Nguyên.
Tải xuống
Vui lòng đăng nhập để tải sách hoặc gửi vào Kindle.
Đăng nhập